Do sự khác biệt giữa tiếng Việt dịch vụ kế toán và tiếng Hán, nên chữ Hán cổ điển không thể ghi chính xác chữ quốc ngữ của Việt Nam (như chữ Hán cổ, viết bằng chữ Hán cổ, nhưng tiếng nói của người dân là chữ quốc ngữ), sau khi chữ Hán dần dần phổ biến ở Việt Nam. , một số người bắt đầu cố gắng sử dụng chữ Hán Làm cơ sở tạo ra các ký tự mới để ghi chữ quốc ngữ Việt Nam, những ký tự này là chữ Nam (Chữ Nôm / 𡦂 Nam). Chữ Nam bắt đầu xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ 8, đến thế kỷ thứ 13, giới văn học Việt Nam bắt đầu sử dụng chữ Nam để sáng tác văn học. Tác phẩm văn học nổi tiếng nhất ở đây là Truyện Kiều, được Nguyễn Du viết vào thế kỷ 19. Tầng lớp thượng lưu xã hội Việt Nam luôn bác bỏ loại chữ viết này vì tư tưởng “trọng chữ Hán”, và cơ quan giáo dục quốc gia cũng không coi nó là chữ viết chính thức, cũng như chưa được tổ chức và chuẩn hóa. Mặc dù các nhà cai trị của nhà Hồ (1400-1407) hay triều đình Phú Xuân (1788-1802) của nhà Nguyễn ở Tây Sơn đã chú ý đến chữ nam và nâng dịch vụ kế toán nó lên vị trí của nhân vật được sử dụng trong các văn bản quốc gia. .
Chữ Quốc ngữ hiện nay được viết bằng chữ cái Latinh gọi là Quốc ngữ (Chữ Quốc ngữ). Nó được thành lập bởi Alexandre de Rhodes (tiếng Pháp: Alexandre de Rhodes, tiếng Việt: A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ), một nhà truyền giáo người Pháp đến Việt Nam vào thế kỷ 17, 1591-1660) theo nguyên tắc chính tả của các nhà truyền giáo trước đây đã tích hợp ở trên. . Hệ thống chữ viết này trở nên phổ biến trong thời kỳ Pháp chiếm đóng Việt Nam vào thế kỷ 19 và được sử dụng đầy đủ vào thế kỷ 20.
Ký hiệu ngôn ngữ trong lịch sử Việt Nam
tóm lược
Các tài liệu cổ điển của Việt Nam hầu hết được viết bằng ngôn dịch vụ kế toán ngữ cổ điển của Trung Quốc và hơn 70% từ trong từ điển là từ Hán Việt (từ Hán Việt), được viết bằng chữ Hán cổ điển sử dụng chữ Hán, trong khi các tài liệu thông thường thường được viết. trong tiếng Việt sử dụng hỗn hợp chữ Hán và chữ Nôm. Việc bãi bỏ các kỳ thi triều đình ở Việt Nam vào năm 1919, sự sụp đổ của nhà Nguyễn vào năm 1945 và sự thành lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã dẫn đến việc giảm dần việc sử dụng chữ Hán và chữ Nam.
Nó được thay thế bằng "quốc ngữ" (Chữ Quốc Ngữ / 𡦂 國語), được phát minh bởi các nhà truyền giáo Thiên chúa giáo vào thế kỷ 17 và được phổ biến bởi chính sách thực dân Pháp. Trong thời kỳ thuộc địa, chữ Hán được thực dân Pháp gọi là “quà tặng của người Pháp” và là “biểu tượng của“ nền văn minh ”. Các ký tự đã trở thành ký hiệu chính thức của tiếng Việt sau khi độc lập, và người dân Việt Nam nói chung dịch vụ kế toán không phản đối việc sử dụng các ký tự quốc ngữ làm ký hiệu chính thức. [5]
Ba hệ thống tài liệu
Trong lịch sử, ở Việt Nam có ba hệ thống văn bản, bao gồm:
Tiếng Trung (Cổ điển)
Hàn Nam
Tiếng Quan Thoại (Romaji tiếng Việt)